Chú thích Wikipedia:Độ_nổi_bật_(học_giả)

  1. Đa số học giả đã từng hoặc đang là giảng viên (giáo sư) tại các trường cao đẳng và đại học. Ngoài ra, nhiều học giả đang hoặc tưng nắm giữ những vị trí học thuật và nghiên cứu trong các viện nghiên cứu học thuật khác nhau (như NIH, CNRS, v.v.). Tuy nhiên, học giả, theo cách định nghĩa ở trên, vẫn có thể làm việc ngoài môi trường học thuật (như trong công nghiệp, lĩnh vực tài chính, chính quyền, làm nghề bác sĩ, làm nghề luật sư, v.v.) và công việc chính của họ không mang bản chất học thuật nếu họ nổi tiếng vì những thành tựu học thuật của họ; ngược lại, nếu học nổi tiếng nhờ công việc chính của mình, họ không cần phải là một học giả nổi bật thì mới bảo đảm có một bài viết.Giáo viên dạy ở bậc giáo dục cấp 2, đôi khi vẫn được gọi là giáo sư, không được xem mặc nhiên là học giả và chỉ được gọi là học giả theo hướng dẫn này nếu họ có liên hệ đến những nghiên cứu mang tính học thuật thực sự và nổi tiếng vì nghiên cứu đó. Họ nên được đánh giá bằng các quy định thông thường dành cho đội nổi bật trong ngành nghề của họ.Xem giáo sư để biết thêm thông tin về thứ bậc học thuật và ý nghĩa của chúng. Chú ý rằng các thứ bậc học thuật khác nhau theo từng nước.
  2. Để xét thỏa mãn Tiêu chí 1, việc trích dẫn cần phải diễn ra trong những bài báo xuất bản mang tính học thuật được thẩm định chéo như tạp chí (journal) hoặc sách học thuật.
  3. Trong một lĩnh vực có những ấn phẩm thẩm định sẽ thẩm định gần như tất cả các ấn phẩm được nhắc đến trong lĩnh vực dód. Ví dụ, trong toán học, Mathematical Reviews, hay còn được biết đến với tên MathSciNet, và Zentralblatt MATH thuộc thể loại này. Nếu chỉ đưa ra minh chứng rằng một bài báo hoặc một cuốn sách được thẩm định trong một ấn phẩm như vậy vẫn chưa thỏa mãn Tiêu chí 1. Tuy nhiên, nội dung của bài thẩm định và bất kỳ các bình luận mang tính đánh giá tại đó cũng có thể được dùng làm minh chứng.
  4. Nói chung, các chủ đề mang tính thí nghiệm và ứng dụng hơn thường có tỷ lệ xuất bản và trích dẫn cao hơn là những chủ đề mang tính lý thuyết. Tỷ lệ xuất bản và trích dẫn trong ngành nhân văn thường thấp hơn ngành khoa học. Ngoài ra, trong các ngành khoa học đa số các nghiên cứu gốc mới được xuất bản trong các tạp chí và biên bản hội nghị trong khi trong ngành nhân văn việc xuất bản sách đóng vai trò quan trọng hơn. Ý nghĩa của "số lượng xuất bản đáng kể" và "tỷ lệ trích dẫn cao" có thể được diễn dịch giống như các diễn dịch mà những cơ sở nghiên cứu lớn sử dụng khi trao thưởng các chức danh.
  5. Một báo cáo từ hiệp hội các khoa khoa học máy tính ở châu Âu liệt kê mười điểm lớn để đánh giá các nghiên cứu khoa học máy tính, hai trong số đó nhấn mạnh tầm quan trọng của ấn phẩm không phải tạp chí và một trong số đó cảnh báo đặc biệt về việc sử dụng Web of Science: Meyer, Bertrand; Choppy, Christine; Staunstrup, Jørgen; van Leeuwen, Jan (2009), “Research Evaluation for Computer Science”, Communications of the ACM, 52 (4): 31–34, doi:10.1145/1498765.1498780. Thay vào đó, nó khuyến cáo dùng Google scholar hay Citeseer cho lĩnh vực này.